Có thể bạn sẽ quan tâm
Định Nghĩa Tiền Tệ Và Phân Tích Các Hình Thái Tiền Tệ
- 1. Tiền tệ là gì?
- 2. Các chức năng chính của tiền tệ
- 3. Các hình thái của tiền tệ
- 3.1 Hình thái tiền tệ: Hóa tệ (Commodity Money)
- 3.2 Hóa tệ không kim loại
- 3.3 Hóa tệ kim loại (Kim tệ)
- 3.4 Hình thái tiền tệ: Tín tệ (Token money)
- 3.5 Tiền kim loại (Coin)
- 3.6 Tiền giấy (Paper Money or Bank Notes)
- 3.7 Hình thái tiền tệ: Bút tệ (Bank Money)
- 3.8 Hình thái tiền tệ: Tiền điện tử (Electronic Money)
- 4. Kết luận
Tiền tệ là một phạm trù kinh tế và cũng là một phạm trù lịch sử. Sự xuất hiện của tiền là một phát minh vĩ đại của loài người, nó làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế – xã hội. Tiền tệ có nhiều hình thái khác nhau, trong bài viết này, UB Academy sẽ tổng hợp các hình thái tiền tệ ấy.
1. Tiền tệ là gì?
Rất nhiều người trong chúng ta thực tế vẫn chưa biết tiền tệ được định nghĩa chính xác là gì và có các hình thái của tiền tệ nào trong xã hội. UB Academy sẽ cùng bạn lần lượt giải đáp các thắc mắc trong nội dung bên dưới đây.
Trước hết, chúng ta sẽ lý giải tiền tệ là gì và nó có nguồn gốc từ đâu. Tiền tệ (Currency) là một phạm trù lịch sử, tiền tệ là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Nó chính là phương tiện dùng để thực hiện việc trao đổi hàng hóa và nó được chấp nhận ở một nhóm người.
Tiền tệ thường được ngân hàng trung ương phát hành, tiền tệ bao gồm cả tiền xu và tiền giấy đều có giá trị thanh toán như nhau. Con người dùng tiền để mua bán, trao đổi hàng hóa, thanh toán các dịch vụ và hoàn trả các khoản nợ.
- Theo Mác thì tiền tệ là một thứ hàng hoá đặc biệt dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hóa. Và ông cũng cho rằng, tiền tệ xuất hiện sau một hành trình dài của trao đổi và các hình thái giá trị. Từ hình thái giá trị tương đối vật ngang giá chung đến hình thái giá trị chung khi có sự phân công lao động lần thứ 2, thủ công nghiệp tách rời khỏi nông nghiệp.
- Còn theo các nhà kinh tế hiện đại định nghĩa thì tiền được là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để nhận hàng hoá, dịch vụ hoặc trong việc trả nợ.
Tóm lại, nói một cách dễ hiểu thì sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Bạn nên ghi nhớ nguồn gốc xuất hiện và bản chất của các hình thái của tiền tệ với các nội dung ngắn gọn như trên trước khi tìm hiểu thêm các kiến thức chuyên sâu về tiền tệ
Đến thời điểm hiện nay, các hình thái tiền tệ trên toàn cầu rất đa dạng và phong phú. Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu thứ tự ra đời của các hình thái tiền tệ và chức năng của tiền tệ trong những nội dung tiếp theo.
2. Các chức năng chính của tiền tệ
Vậy tiền tệ và các hình thái của tiền tệ có chức năng gì trong đời sống, xã hội của loài người? Một cách tổng quan nhất về chức năng của tiền tệ chính là phương tiện dùng để thanh toán, lưu thông, phương tiện cất trữ và là thước đo giá trị tiền tệ giữa các quốc gia, khu vực trên thế giới. Cùng UB Academy tìm hiểu chi tiết hơn về từng chức năng của tiền tệ trong nội dung bên dưới.
- Thước đo giá trị
Chức năng đầu tiên của tiền tệ chính là dùng để đo lường giá trị của các hàng hoá. Thực tế thì giá cả cũng là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa. Có thể đo lường giá trị hàng hóa bằng tiền mặt hoặc bằng tiền vàng
Trước khi thực hiện được chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ phải được quy định về đơn vị tiền tệ chung của mỗi quốc gia, khu vực.
- Là phương tiện lưu thông
Tiền được dùng làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hoá, vì thế nên trong lịch sử thứ tự ra đời của các hình thái tiền tệ chúng đều được dùng để lưu thông hàng hóa theo công thức H – T – H.
- H là hàng hóa
- T là tiền mặt
Ở mỗi thời kỳ nhất định, lượng tiền lưu thông hàng hóa được quy định bởi quy luật lưu thông tiền tệ. Các hình thái tiền ban đầu là thức vàng thỏi, bạc nén, dần dần nó được thay thế bằng tiền đúc và sau cùng là bạc giấy dùng để làm phương tiện lưu thông.
- Làm phương tiện cất trữ
Một chức năng khác của các hình thái của tiền tệ chính là làm phương tiện cất trữ và không còn tham gia vào chức năng lưu thông nữa. Vì thực tế có thể thấy tiền là cải xã hội dưới hình thái giá trị, cất trữ tiền cũng chính là một hình thức cất trữ của cải. Hiện nay, tiền, vàng, bạc là các hình thái tiền tệ được làm phương tiện cất trữ nhiều nhất.
- Làm phương tiện thanh toán
Các hình thái của tiền còn có chức năng làm phương tiện thanh toán, chi trả, mua bán hàng hóa, thanh toán nợ…Phương tiện thanh toán có thể thực hiện bằng tiền mặt, chuyển khoản ngân hàng, ghi séc, thẻ tín dụng… Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển tất yếu sẽ có chủ nợ và con nợ, nếu không được thanh toán thì nền kinh tế sẽ bị khủng hoảng và làm gián đoạn sản xuất.
- Tiền tệ thế giới
Chức năng làm tiền tệ thế giới xuất hiện khi các quốc giao giao thương, buôn bán với nhau. Hay nói cách khác tiền tệ lúc bấy giờ trở thành phương tiện thanh toán quốc tế. Lưu ý, các hình thái của tiền tệ phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng được thừa nhận thanh toán quốc tế.
3. Các hình thái của tiền tệ
Cùng UB Academy tìm hiểu thứ tự ra đời của các hình thái tiền tệ trong nội dung sau:
3.1 Hình thái tiền tệ: Hóa tệ (Commodity Money)
Hóa tệ là loại tiền tệ bằng hàng hóa. Đấy chính là hình thái đầu tiên của tiền tệ và được sử dụng trong một thời gian dài. Trong các loại hàng hóa được dùng làm tiền tệ được chia làm hai loại: hàng hóa không phải kim loại (non metallic commodities) và hàng hóa kim loại (metallic commodities). Do vậy, hóa tệ cũng bao gồm hai loại: hóa tệ không kim loại và hóa tệ kim loại:
3.2 Hóa tệ không kim loại
Tức là dùng hàng hóa không kim loại làm tiền tệ. Đấy là hình thái cổ xưa nhất của tiền tệ, rất thường dùng trong các xã hội cổ truyền. Tùy theo từng quốc gia, từng địa phương, người ta dùng những loại hàng hóa khác nhau làm tiền tệ. Chẳng hạn:
- Ở Hy Lạp và La Mã người ta dùng bò và cừu.
- Ở Tây Tạng, người ta dùng trà đóng thành bánh.
Nói chung, hóa tệ không kim loại có nhiều bất lợi khi đóng vai trò tiền tệ như: tính chất không đồng nhất; dễ hư hỏng, khó phân chia; khó bảo quản cũng như vận chuyển; nó chỉ được công nhận trong từng khu vực, từng địa phương. Vì vậy, hóa tệ không kim loại dần dần bị loại bỏ vì người ta bắt đầu dùng hóa tệ kim loại thay thế cho hóa tệ không kim loại.
3.3 Hóa tệ kim loại (Kim tệ)
Tức là lấy kim loại làm tiền tệ. Các kim loại được dùng làm tiền tệ gồm: đồng, kẽm, vàng, bạc…
Nói chung, các kim loại có nhiều ưu điểm hơn hẳn hàng hóa không kim loại khi được sử dụng làm thành tiền tệ như: phẩm chất, trọng lượng có thể quy đổi chính xác hơn, dễ dàng hơn. Mặt khác, nó hao mòn chậm hơn, dễ chia nhỏ, giá trị tương đối ít biến đổi…
Trãi qua thực tiễn trao đổi và lưu thông hóa tệ kim loại; dần dần người ta chỉ chọn hai kim loại dùng để làm tiền tệ lâu dài hơn là vàng và bạc. Sở dĩ vàng hay bạc trở thành tiền tệ lâu dài là vì bản thân nó có những thuận tiện mà những kim loại khác không có được như: tính đồng nhất, tính dễ chia nhỏ, tính dễ cất trữ, tính dễ lưu thông.
3.4 Hình thái tiền tệ: Tín tệ (Token money)
Tức là loại tiền mà bản thân nó không có giá trị, song nhờ sự tín nhiệm của mọi người mà nó được lưu dùng. Cũng chính vì lý do này mà nhiều lúc người ta gọi loại tiền tệ này là chỉ tệ.
Tín tệ gồm hai loại: Tín tệ kim loại và tiền giấy.
3.5 Tiền kim loại (Coin)
Tiền kim loại thuộc hình thái tín tệ khác với tiền kim loại thuộc hình thái hóa tệ ở chỗ:
- Trong hóa tệ kim loại giá trị của kim loại làm thành tiền bằng giá trị ghi trên bề mặt của đồng tiền.
- Còn ở tín tệ kim loại, giá trị chất kim loại đúc thành tiền và giá trị ghi trên bề mặt của đồng tiền không có liên hệ gì với nhau; có thể gắn cho nó một giá trị nào cũng được.
3.6 Tiền giấy (Paper Money or Bank Notes)
Tiền giấy có hai loại: tiền giấy khả hoán và tiền giấy bất khả hoán.
- Tiền giấy khả hoán: là một mảnh giấy được in thành tiền tiền và lưu hành, thay thế cho tiền bằng vàng hay tiền bằng bạc mà người ta không gửi tại ngân hàng. Người có loại tiền này có thể đến ngân hàng để đổi lấy một số lượng vàng hay bạc tương đương với giá trị ghi trên tờ giấy; hoặc sử dụng làm tiền vào bất cứ lúc nào họ cần.
Tại phương Tây, tiền giấy khả hoán xuất hiện vào thế kỷ 17; ông Palmstruck, người sáng lập ra ngân hàng Stockholm của Thụy Điển vào thế kỷ 17 được công nhận là người đầu tiên sáng chế ra tiền giấy khả hoán.
Ở Phương Đông, tiền giấy khả hoán xuất hiện sớm hơn hẳn ở phương Tây.
- Tiền giấy bất khả hoán: là loại tiền giấy bắt buộc lưu hành và dân chúng không thể đem nó đến ngân hàng để đổi lấy vàng hay bạc. Đấy là loại tiền giấy mà ngày nay tất cả các quốc gia trên thế giới đều sử dụng.
Tại Việt Nam, tiền giấy ra đời vào thế kỷ 15, dưới thời Hồ Quý Ly.
Tại Pháp, tiền giấy trở thành bất khả hoán năm 1720; từ năm 1848 đến năm 1850; từ năm 1870 đến năm 1875; từ năm 1914 đến năm 1828; và sau cùng kể từ ngày 01-10-1936 đến nay.
Tại Hoa Kỳ, trong thời gian nội chiến vào những năm 1862-1863; nhiều nước đã phát hành tiền giấy bất khả hoán. Sau nội chiến kết thúc, trở thành khả hoán kể từ năm 1879.
Có thể nói, chiến tranh thế giới lần thứ nhất và cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 là nguyên nhân chính để dẫn đến việc sử dụng tiền giấy bất khả hoán rộng khắp các nước.
3.7 Hình thái tiền tệ: Bút tệ (Bank Money)
Bút tệ hay còn gọi là tiền ghi sổ được tạo ra khi phát tín dụng thông qua tài khoản tại ngân hàng. Do vậy, bút tệ không có hình thái vật chất; nó chỉ là những con số trả tiền hay chuyển tiền thể hiện trên tài khoản ngân hàng. Thực chất, bút tệ là tiền phi vật chất; nhưng nó cũng có những tính chất giống như tiền giấy là được sử dụng trong thanh toán qua những công cụ thanh toán của ngân hàng như: séc, lệnh chuyển tiền… mà còn có những ưu điểm hơn hẳn tiền giấy; đó là: an toàn hơn; chuyển đổi ra tiền giấy dễ dàng; thanh toán rất thuận tiện; kiểm nhận nhanh.
Về nguồn gốc, trong kinh tế học người ta cho rằng bút tệ xuất hiện đầu tiên tại ngân hàng Anh vào giữa thế kỷ 19. Sau đó dần dần lan sang các quốc gia khác. Ngày nay, bút tệ được sử dụng rộng rãi trong các cuộc giao dịch tại các nước công nghiệp, hậu công nghiệp.
3.8 Hình thái tiền tệ: Tiền điện tử (Electronic Money)
Tiền điện tử là loại tiền được sử dụng qua hệ thống thanh toán tự động; hay còn gọi là hộp ATM (Automated Teller Machine). Đó là một hệ thống máy tính được nối mạng với toàn bộ hệ thống ngân hàng trung gian và một hộp chuyển tiền của chính phủ.
Khi chúng ta đến một ngân hàng trung gian gửi tiền; bên cạnh việc trao cho chúng ta một chứng thư xác nhận việc gửi tiền; ngân hàng này sẽ trao cho chúng ta một tấm card bằng nhựa; bên trong được mã hóa điện tử và một mật mã từ 3 đến 5 con số để sử dụng. Hai phút sau khi chúng ta gửi tiền; toàn bộ số tiền ấy cùng với mật mã và số tài khoản của chúng ta được máy tính điện tử thông báo trên toàn hệ thống (Có thể trên phạm vi các quốc gia).
Khi cần dùng tiền mặt, hoặc khi cần chuyển tiền vào tài khoản của một người nào đó… chúng ta chỉ cần nhét tấm card ấy vào khe của máy ATM; sau khi bấm mật mã, màn hình của máy tính ATM sẽ xin lệnh; trong số tiền đã gửi chúng ta có thể rút tiền hoặc chuyển tiền qua ngân hàng.
Sau một phút, tất cả mọi việc sẽ được hoàn tất. Chúng ta sẽ có tiền mặt trong tay hoặc đã chuyển tiền xong, mẫu phiếu thông báo quyết toán của máy tính in ra ngay lập tức sau khi chúng ta rút tiền hoặc chuyển tiền. Phiếu này cho biết rõ ngày giờ ta đã rút tiền mặt hoặc chuyển tiền; số tài khoản; số card; số tiền đã rút hoặc đã chuyển; và số tiền còn lại trong tài khoản. Tấm card này được xem là tiền; tuy nhiên việc xem tấm card này là một hình thái tiền tệ vẫn chưa được thống nhất; bởi lẽ có một số quan điểm cho rằng đó chỉ là phương tiện chi trả.
4. Kết luận
Tóm lại, ở bất cứ nền kinh tế nào hay dù ở bất cứ mức độ phát triển nào cũng có tính chất đa dạng nhất định của nó. Do vậy, việc tồn tại nhiều hình thái tiền tệ để thỏa mãn tất cả những nhu cầu đa dạng của xã hội; của các cá nhân là điều tất nhiên.